Sunday 10 April 2022

Đào hoa nguyên kí - Đào Uyên Minh


Chép truyện "Suối hoa đào" (1)

Vào khoảng triều Thái Nguyên (2) đời Tấn, có một người ở Vũ Lăng (3) làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà đi, quên mất đường xa gần, bỗng gặp một rừng hoa đào mọc sát bờ mấy trăm bước, không xen loại cây nào khác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ. Người đánh cá lấy làm lạ, tiến thêm vô, muốn đến cuối khu rừng. Rừng hết thì suối hiện và thấy một ngọn núi. Núi có hang nhỏ, mờ mờ như có ánh sáng, bèn rời thuyền, theo cửa hang mà vô. Mới đầu hang rất hẹp, chỉ vừa lọt một người. Vô vài chục bước, hang mở rộng ra, sáng sủa; đất bằng phẳng trống trải, nhà cửa tề chỉnh, có ruộng tốt, ao đẹp, có loại dâu loại trúc, đường bờ (4) thông nhau, tiếng gà tiếng chó tiếp nhau (5). Trong đó những người đi lại trồng trọt làm lụng, đàn ông đàn bà ăn bận đều giống người bên ngoài, từ những người già tóc bạc (6) tới những trẻ để trái đào, đều hớn hở vui vẻ.
Họ thấy người đánh cá, rất lấy làm kinh dị, hỏi ở đâu tới. Người đánh cá kể lể đầu đuôi. Họ bèn mời người này về nhà, bày rượu, mổ gà để đãi. Người trong xóm nghe tin, đều lại hỏi thăm. Họ bảo tổ tiên trốn loạn đời Tần, dắt vợ con và người trong ấp lại chỗ hiểm trở xa xôi này rồi không trở ra nữa; từ đó cách biệt hẳn với người ngoài. Họ lại hỏi bấy giờ là đời nào, vì họ không không biết có đời Hán nữa, nói chi đến đời Ngụy và Tấn. Người đánh cá nhất thiết kể lại đủ cả sự tình, họ nghe rồi đều đau xót, than thở. Những người đứng bên đều mời về nhà mình chơi, đều thết đãi ăn uống. Ở lại chơi vài ngày rồi từ biệt ra về. Trong bọn họ có người dặn: "Ðừng kể cho người ngoài hay làm gì nhé!".
Ra khỏi hang rồi, tìm lại được chiếc thuyền, bèn theo đường cũ mà về, tới đâu đánh dấu chỗ đó. Ðến quận, vào yết kiến quan Thái thú kể lại sự tình. Viên Thái thú sai ngay người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng mơ hồ, không kiếm được con đường cũ nữa.
Ông Lưu Tử Kí ở đất Nam Dương (7) là bậc cao sĩ, nghe kể chuyện, hân hoan tự đi tìm lấy nơi đó, nhưng chưa tìm ra thì bị bệnh mà mất. Từ đó không ai hỏi thăm đường đi nữa (8).


Nguyễn Hiến Lê dịch 
(Cổ văn Trung quốc, theo bản in 1966, Xuân Thu xuất bản, USA).

đào hoa nguyên kí * đào uyên minh

tấn thái nguyên trung, vũ lăng nhân, bộ ngư vi nghiệp, duyên khê hành, vong lộ chi viễn cận; hốt phùng đào hoa lâm, giáp ngạn sổ bách bộ, trung vô tạp thụ, phương thảo tiên mĩ, lạc anh tân phân; ngư nhân thậm dị chi。 phục tiền hành, dục cùng kì lâm。 lâm tận thủy nguyên, tiện đắc nhất san。 san hữu tiểu khẩu, bàng phất nhược hữu quang, tiện xá thuyền, tòng khẩu nhập。


sơ cực hiệp, tài thông nhân; phục hành sổ thập bộ, hoát nhiên khai lãng。 thổ địa bình khoáng, ốc xá nghiễm nhiên。 hữu lương điền、 mĩ trì、 tang、 trúc chi chúc, thiên mạch giao thông, kê khuyển tương văn。 kì trung vãng lai chủng tác, nam nữ y trứ, tất như ngoại nhân; hoàng phát thùy thiều, tịnh di nhiên tự nhạc。 kiến ngư nhân, nãi đại kinh, vấn sở tòng lai; cụ đáp chi。 tiện yếu hoàn gia, thiết tửu、 sát kê、 tác thực。 thôn trung văn hữu thử nhân, hàm lai vấn tấn。 tự vân:「 tiên thế tị tần thì loạn, suất thê tử ấp nhân lai thử tuyệt cảnh, bất phục xuất yên; toại dữ ngoại nhân gian cách。」 vấn「 kim thị hà thế?」 nãi bất tri hữu hán, vô luận ngụy、 tấn! thử nhân nhất nhất vi cụ ngôn sở văn, giai thán oản。 dư nhân các phục diên chí kì gia, giai xuất tửu thực。 đình sổ nhật, từ khứ。 thử trung nhân ngữ vân:「 bất túc vi ngoại nhân đạo dã。」


kí xuất, đắc kì thuyền, tiện phù hướng lộ, xứ xứ chí chi。 cập quận hạ, nghệ thái thủ, thuyết như thử。 thái thủ tức khiển nhân tùy kì vãng, tầm hướng sở chí, toại mê bất phục đắc lộ。 nam dương lưu tử kí, cao thượng sĩ dã, văn chi, hân nhiên quy vãng, vị quả, tầm bệnh chung。 hậu toại vô vấn tân giả。




Chú thích

(1) suối hoa đào : bài này vốn là bài tựa cho bài thơ nhan đề là Ðào hoa nguyên thi.  
(2) Thái Nguyên : niên hiệu Hiếu Vũ Ðế (376-396) nhà Tấn. 
(3) Vũ Lăng : tên quận, nay ở tỉnh Hồ Nam. 
(4) đường bờ: nguyên văn: "thiên mạch giao thông" . "Thiên" là những đường bờ ruộng từ Bắc xuống Nam, "mạch" là những đường bờ ruộng từ Ðông sang Tây. 
(5) tiếp nhau: nghĩa là nhà này nghe được tiếng gà chó của nhà kia. 
(6) tóc bạc: nguyên văn: "hoàng phát"  nghĩa là tóc vàng. Người già tóc bạc rồi chuyển qua màu vàng. 
(7) Nam Dương : tên quận, nay ở tỉnh Hà Nam. Lưu Tử Kí là người đời triều Tấn hay ngao du sơn thủy. 
(8) hỏi thăm đường: nguyên văn: "vấn tân"  nghĩa là hỏi bến đò. 



Nguồn:

http://www.epochtimes.com/b5/1/9/1/c4691.htm










Tuesday 10 February 2015

cấp 2: Đào Uyên Minh - Đào hoa nguyên kí (v2)


*

Chép truyện "Suối hoa đào" (1)

Tấn Thái Nguyên trung

 Lăng nhân bộ

ngư vi nghiệp duyên

khê hành vong lộ

chi viễn cận Hốt

phùng đào hoa lâm

giáp ngạn sổ bách bộ

trung vô tạp thụ

phương thảo tiên mĩ

lạc anh tân phân

ngư nhân thậm dị chi

phục tiền hành dục

cùng kì lâm Lâm
便
tận thủy nguyên tiện

đắc nhất san San

hữu tiểu khẩu bàng
彿
phất nhược hữu quang
便
tiện xả thuyền tòng

khẩu nhập


 cực hiệp

tài thông nhân phục

hành sổ thập bộ

hoát nhiên khai lãng

Thổ địa bình khoáng

ốc xá nghiễm nhiên

Hữu lương điền mĩ trì

tang trúc chi thuộc

thiên mạch giao thông

 khuyển tương văn

 trung vãng lai chủng

tác nam nữ y

trước tất như ngoại

nhân hoàng phát thùy

thiều tịnh di nhiên

tự lạc Kiến ngư

nhân nãi đại kinh

vấn sở tòng lai
便
cụ đáp chi tiện

yêu hoàn gia thiết

tửu sát kê tác thực

thôn trung văn hữu thử

nhân hàm lai vấn

tấn Tự vân tiên

thế tị Tần thì loạn

suất thê tử ấp nhân

lai thử tuyệt cảnh

bất phục xuất yên

toại dữ ngoại nhân gian

cách Vấn kim thị

 thế nãi bất

tri hữu Hán vô

luận Ngụy Tấn

thử nhân nhất nhất vi

cụ ngôn sở văn

giai thán oản Dư

nhân các phục diên chí

 gia giai xuất

tửu thực Đình sổ

nhật từ khứ thử

trung nhân ngữ vân

Bất túc vi ngoại nhân

đạo dã


 xuất đắc
便
 thuyền tiện phù

hướng lộ xứ xứ

chí chi Cập quận

hạ nghệ Thái thú

thuyết thử Thái thú

tức khiển nhân tùy kì

vãng tầm hướng sở

chí toại mê bất

phục đắc lộ Nam

Dương Lưu Tử Kí

cao sĩ dã văn

chi hân nhiên quy

vãng vị quả

tầm bệnh chung Hậu

toại vô vấn tân giả

Vào khoảng triều Thái Nguyên (2) đời Tấn, có một người ở Vũ Lăng (3) làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà đi, quên mất đường xa gần, bỗng gặp một rừng hoa đào mọc sát bờ mấy trăm bước, không xen loại cây nào khác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ. Người đánh cá lấy làm lạ, tiến thêm vô, muốn đến cuối khu rừng. Rừng hết thì suối hiện và thấy một ngọn núi. Núi có hang nhỏ, mờ mờ như có ánh sáng, bèn rời thuyền, theo cửa hang mà vô. Mới đầu hang rất hẹp, chỉ vừa lọt một người. Vô vài chục bước, hang mở rộng ra, sáng sủa; đất bằng phẳng trống trải, nhà cửa tề chỉnh, có ruộng tốt, ao đẹp, có loại dâu loại trúc, đường bờ (4) thông nhau, tiếng gà tiếng chó tiếp nhau (5). Trong đó những người đi lại trồng trọt làm lụng, đàn ông đàn bà ăn bận đều giống người bên ngoài, từ những người già tóc bạc (6) tới những trẻ để trái đào, đều hớn hở vui vẻ.
Họ thấy người đánh cá, rất lấy làm kinh dị, hỏi ở đâu tới. Người đánh cá kể lể đầu đuôi. Họ bèn mời người này về nhà, bày rượu, mổ gà để đãi. Người trong xóm nghe tin, đều lại hỏi thăm. Họ bảo tổ tiên trốn loạn đời Tần, dắt vợ con và người trong ấp lại chỗ hiểm trở xa xôi này rồi không trở ra nữa; từ đó cách biệt hẳn với người ngoài. Họ lại hỏi bấy giờ là đời nào, vì họ không không biết có đời Hán nữa, nói chi đến đời Ngụy và Tấn. Người đánh cá nhất thiết kể lại đủ cả sự tình, họ nghe rồi đều đau xót, than thở. Những người đứng bên đều mời về nhà mình chơi, đều thết đãi ăn uống. Ở lại chơi vài ngày rồi từ biệt ra về. Trong bọn họ có người dặn: "Ðừng kể cho người ngoài hay làm gì nhé!".
Ra khỏi hang rồi, tìm lại được chiếc thuyền, bèn theo đường cũ mà về, tới đâu đánh dấu chỗ đó. Ðến quận, vào yết kiến quan Thái thú kể lại sự tình. Viên Thái thú sai ngay người đánh cá trở lại, tìm những chỗ trước đã đánh dấu, nhưng mơ hồ, không kiếm được con đường cũ nữa.
Ông Lưu Tử Kí ở đất Nam Dương (7) là bậc cao sĩ, nghe kể chuyện, hân hoan tự đi tìm lấy nơi đó, nhưng chưa tìm ra thì bị bệnh mà mất. Từ đó không ai hỏi thăm đường đi nữa (8).


Nguyễn Hiến Lê dịch (Cổ văn Trung quốc, Xuân Thu xuất bản, USA).


Chú thích
(1) Suối hoa đào : Bài này vốn là bài tựa cho bài thơ nhan đề là Ðào hoa nguyên thi.  
(2) Thái Nguyên : Niên hiệu Hiếu Vũ Ðế (376-396) nhà Tấn. 
(3) Vũ Lăng : Tên quận, nay ở tỉnh Hồ Nam. 
(4) Ðường bờ: Nguyên văn: "thiên mạch giao thông" . "Thiên" là những đường bờ ruộng từ Bắc xuống Nam, "mạch" là những đường bờ ruộng từ Ðông sang Tây. 
(5) Tiếp nhau: Nghĩa là nhà này nghe được tiếng gà chó của nhà kia. 
(6) Tóc bạc: Nguyên văn: "hoàng phát"  nghĩa là tóc vàng. Người già tóc bạc rồi chuyển qua màu vàng. 
(7) Nam Dương : Tên quận, nay ở tỉnh Hà Nam. Lưu Tử Kí là người đời triều Tấn hay ngao du sơn thủy. 
(8) Hỏi thăm đường: Nguyên văn: "vấn tân"  nghĩa là hỏi bến đò. 


Nguồn:
http://teacher.whsh.tc.edu.tw/huanyin/anfa_toa6.htm